JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci. 2012,
Vol. 57, No. 4, pp. 48-56
BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH TƯƠNG TÁC
TÍCH CỰC
TRONG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT
Nguyễn Cẩm Thanh, Nguyễn Văn Khôi
Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội
I. MỞ ĐẦU
Trong quá trình dạy học thực hành kỹ thuật (THKT) dù
được thực hiện theo quan điểm dạy học nào thì cũng đều có quá trình tương tác
giữa ba nhân tố là người học, người dạy và môi trường dạy học. Nhưng việc quan
tâm tới các cặp tương tác (sự tác
động qua lại giữa các nhân tố nói trên) để tương tác được diễn ra theo chủ định
thì chưa được xem xét đúng mức, chưa có những biện pháp cụ thể để tương tác
tích cực, hướng đến việc nâng cao chất lượng của quá trình dạy học.
Xem xét chức năng, nhiệm vụ của dạy
học THKT với dạy học lý thuyết kỹ thuật luôn bổ sung, thống nhất với nhau, thay đổi và kế thừa nhau trong đào tạo nghề kỹ thuật. Dạy học THKT
cần quan tâm đến cả hai loại hình hoạt động: thực hành trí tuệ và thực hành vật
chất. Hình thức tổ chức dạy học THKT thông qua các hoạt động tương tác giữa ba
nhân tố chính trong hệ dạy học là người học, người dạy và môi trường dạy học.
Trong đó môi trường dạy học chỉ xem xét ở phạm vi trong lớp học nó chứa đựng cả nội dung dạy học. Như vậy, môi
trường là một trong những tác nhân chủ yếu của quá trình dạy học. Các hoạt động
tương tác cần tích cực nhờ vào các biện pháp cụ thể như: chẩn đoán về người học; đưa người học vào làm việc trong
môi trường tri thức; tạo khung kiến thức cơ bản đối với nhu cầu người học; khuyến
khích người học độc lập học tập; đảm bảo cho người học khả năng tiếp cận công
cụ; phát triển kỹ năng thảo luận; người dạy chú ý tác động vào vùng phát triển
gần của người học.
II.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm
a) Dạy học thực hành kỹ thuật
Thực hành là: "Làm để cho thành
sự thực; bắt tay vào việc áp dụng thực sự lý thuyết đã học" [7, tr711].
Trong dạy học kỹ thuật, thực hành
được hiểu là: "Thực hành là hoạt động của học sinh nhằm vận dụng những
hiểu biết kỹ thuật và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết" [4, tr12].
Hoạt động thực hành có hai dạng cụ
thể trong mối quan hệ tương hỗ: hoạt động thực hành trí tuệ; hoạt động thực
hành vật chất.
Dạy thực hành kỹ thuật là một quá trình giáo dục và
giáo dưỡng được tổ chức có kế
hoạch cho việc học tập và
lao
động. Quá trình dạy học thực hành cùng với quá trình dạy học lý thuyết và hoạt động ngoài giờ, tạo thành một thể thống nhất trong đào tạo. Việc
phân chia tương đối quá
trình dạy học trong đào tạo như vậy là dựa vào chức năng, nhiệm
vụ
của dạy lý thuyết và dạy thực hành. Chúng được
bổ
sung, thống nhất với nhau, thay đổi và kế thừa nhau. Hiện nay Việt
Nam đang có xu hướng thực hiện thống nhất quá trình dạy
học lý thuyết chuyên môn kỹ thuật với quá trình dạy
học thực hành kỹ thuật (tích hợp lý thuyết với thực
hành). Hình thức đào tạo theo Môdul và MES (Module Employable Skylls) đang triển khai
thực
hiện giữa dạy lý thuyết và
dạy
thực hành gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau về mục tiêu trong phương
pháp lĩnh hội, nhận thức đối với các tri thức lý thuyết và các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp vẫn tồn tại khách quan trong quá trình dạy học
kỹ thuật.
Thực tế từ trước đến nay, đa số
người dạy nhìn nhận việc dạy học THKT chỉ tồn tại ở góc độ hoạt động thực hành
vật chất. Nhưng ngày nay khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển mạnh mẽ đã làm
xuất hiện những hoạt động khó tách bạch giữa hoạt động thực hành vật chất và
hoạt động thực hành trí tuệ; vì vậy dạy học thực hành kỹ thuật cần được xem xét
nhiều đến hoạt động thực hành trí tuệ và mối liên hệ giữa hai loại hình hoạt
động này.
b) Dạy học tương tác tích cực
Xem
xét vai trò, mối liên hệ qua lại giữa ba nhân tố: người học, người dạy, môi
trường:
-
Người học (học sinh/sinh viên) cần xác định là người tích cực, chủ động dùng
tất cả năng lực cá nhân để lĩnh hội và tự điều khiển quá trình lĩnh hội tri
thức, kỹ năng và thái độ mới. Người học giữ vai trò tác nhân chính quyết định
chất lượng của quá trình đào tạo. Như vậy, người học cần có hoạt động học theo
đúng bản chất của nó.
Hoạt động học chính là hoạt
động hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người học, tiếp thu những tri thức lý
luận, khoa học, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, việc tiếp thu cả những tri thức của
chính bản thân hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học
phải biết cách học, phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính
bản thân hoạt động học. Để có được hoạt động học thì trước hết ở người học phải
có động cơ, mục đích, hứng thú học tập từ đó hình thành các hành động học tập.
Hành động học ở đây được hiểu là hành động thao tác trí tuệ, vật chất, nhằm chiếm
lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Các hành động học điển hình, cơ bản đó là: hành
động phân tích, tổng hợp, so sánh, liên hệ, khái quát hóa, hành động mô hình
hoá, hành động cụ thể hoá (nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất bản
chất của vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh
vực).
-
Người dạy dùng kiến thức, kinh nghiệm của mình hướng dẫn người học. “Người dạy chỉ cho người học cái đích phải
đạt, giúp đỡ, làm cho người học hứng thú học và đưa họ tới đích. Chức năng chính
của người dạy là giúp đỡ người học chiếm lĩnh các tri thức, hình thành kỹ năng
và kỹ xảo. Người dạy phục vụ người học” [8, tr18].
-
Môi trường dạy học rất đa dạng và phong phú, bao gồm môi trường bên trong (tiềm
năng, giá trị, cảm xúc...), môi trường bên ngoài (thầy, bạn, gia đình, xã hội,
không gian thời gian...). Như vậy "Môi trường là toàn bộ các yếu tố và các
điều kiện bao quanh, ảnh hưởng, chi phối đến người dạy, người học" [9,
tr118]. Do vậy, môi trường đã trở thành một trong những tác nhân của quá trình
dạy học.
Đặc
điểm của quá trình dạy học tương tác tích cực
- Người học được đặt vào vị trí
trung tâm của quá tình dạy học, tính tích cực nhận thức của chủ thể (người học)
phải được khơi dậy, duy trì trong suốt quá trình học tập. Nó được biểu hiện ở
sự hứng thú (tập trung chú ý, khắc phục khó khăn và sự cố gắng cao về hoạt động
trí tuệ và hành động vật chất...); ở sự chuyển yêu cầu thành nhu cầu và ham
muốn, thành động cơ mục đích học tập, ở sự chủ động tham gia giải quyết các
nhiệm vụ học tập của mỗi người học. Tự học, nhờ sự giúp đỡ ở người dạy, thông
qua tài liệu, học hỏi bạn bè.
- Xảy ra sự tương tác nhiều chiều
giữa các nhân tố cơ bản thuộc hệ thống dạy học (người dạy, người học, nội dung
học tập...) thông qua các hình thức trao đổi, thảo luận, làm việc với tài liệu
học tập, tự kiến tạo kiến thức... nghĩa là ở đây có sự kết hợp nhiều phương
pháp dạy học khác nhau (diễn giảng, đàm thoại, trực quan, thí nghiệm - thực
hành, tình huống, giải quyết vấn đề...).
Vậy, có thể hiểu việc dạy học theo
quan điểm dạy học tương tác
tích cực là:
Dạy học tương tác tích cực là quá
trình dạy học có quá trình tương tác nhiều chiều giữa ba nhân tố chủ đạo gồm thầy, trò và môi trường dạy học, trong đó trò
là trung tâm được khơi dậy tính tích cực, thầy là người tổ chức, hướng dẫn,
giúp đỡ trò thực hiện nhiệm vụ học tập, môi trường đóng vai trò ảnh hưởng,
thích nghi đến thầy và trò.
Dạy học tương tác tích cực nhằm cải tiến quá trình dạy
học theo hướng nâng cao chất lượng dạy học thông qua cách dạy của người dạy
(làm cho cách dạy phù hợp với cách học), tạo hứng thú và trách nhiệm học tập
của người học. Do đó cũng cần quan tâm nhiều về cách học của người học.
Sự tương tác có cấu trúc cơ bản gồm: tác động, phản
ứng của các chủ thể tham gia tương tác. Sự tương tác là tích cực khi cách thức
tác động và phản ứng này tạo nên sự chủ động, tự giác, tích cực của các chủ thể
tham gia: cả người dạy và người học trong một môi trường phù hợp.
Như vậy, dạy học tương tác tích cực đặc biệt làm gia
tăng giá trị các mối quan hệ tác động qua lại tồn tại giữa người dạy, người học
và môi trường trong quá trình dạy học. Sự tham gia đa dạng của ba tác nhân này
là nguồn của các mối quan hệ năng động giữa chúng, là yếu tố đặc trưng nhất của
dạy học tương tác tích cực.
c) Môi trường trong dạy học tương tác tích cực
Môi trường không phải là một yếu tố
tĩnh, bất động mà phải là một nhân tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học, nó
không chỉ ảnh hưởng đến người dạy, người học, điều quan trọng là nó làm thay
đổi người học, người dạy nhằm đảm bảo sự thích nghi của người dạy, người học
với môi trường và ngược lại chính người dạy, người học cũng làm thay đổi môi
trường [9, tr118].
Thực
tiễn rất khó để khai thác tất các các yếu tố của môi trường nói chung, bởi nhìn
nhận môi trường một cách toàn diện cho thấy môi trường rất rộng và phong phú.
Vì vậy, ở bài viết này chỉ có thể xem xét môi trường dạy học trong lớp học,
nhận thấy có hai yếu tố chính của sự tương tác là hoạt động dạy tương
ứng hoạt động học, sẽ kéo theo sự thay đổi các yếu tố khác thuộc cấu trúc hoạt động dạy học, tạo
nên chất lượng mới cho cả hệ dạy
học.
Hoạt động dạy và
hoạt động học phải dựa vào nội dung dạy học. Thực chất nội dung dạy học là
thành phần đã được đúc kết, rút ra từ những "kinh nghiệm" xã hội qua
việc hệ thống hóa, khái quát hóa thành "văn hóa". Vì vậy: nội
dung dạy học là một bộ phận thuộc môi trường dạy học [2, tr35].
Người dạy tổ chức
hoạt động dạy sẽ có dự liệu trước về điều kiện môi trường cho phù hợp (xắp xếp
bàn ghế, chuẩn bị tài liệu học tập, phương tiện trực quan, phương tiện thiết bị
kỹ thuật phục vụ dạy - học...) với nội dung học tập. Trong quá trình dạy - học
người dạy có thể tác động, điều chỉnh môi trường theo nội dung học tập, nhịp độ
học tập (thay đổi bầu không khí lớp học, cung cấp thêm tư liệu dạy học cần
thiết, kích thích tính tò mò...).
Như vậy, có thể
hiểu môi trường trong dạy học tương tác tích cực như sau:
Môi trường dạy
học là nhân tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học, nó không chỉ ảnh hưởng đến
người dạy, người học, mà điều quan trọng là làm thay đổi người học, người dạy
nhằm đảm bảo sự thích nghi của người học, người dạy với môi trường và ngược lại
chính người dạy, người học cũng làm môi trường thay đổi.
2.2 Các cặp
tương tác trong dạy học thực hành kỹ thuật
Công cụ để thực hiện tương tác có
thể là ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ, cách ứng xử, ký hiệu, chữ viết... Nội dung
tương tác là các vấn đề thuộc nhiệm vụ học tập. Mục đích tương tác rõ ràng,
được tổ chức và phân công trách nhiệm, đặc biệt diễn ra nhiều chiều, mỗi thành
viên tham gia phải tích cực.
Các
cặp tương tác gồm:
- Người dạy Û người
học
- Người học Û bạn học
- Người học Û bản thân
người học
- Môi trường dạy học Û người
học
- Môi trường dạy học Û người
dạy.
a) Người dạy Û người
học, đây là cặp tương tác phổ biến nhất vốn luôn tồn tại trong quá trình dạy
học. Nhưng mức độ được quan tâm như thế nào để tương tác tích cực thì cần phải
làm rõ, cụ thể trong từng hoạt động dạy tương ứng với hoạt động học. Ban đầu
việc tác động của người dạy đến người học bằng nhiều biện pháp (gây hứng thú,
đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện, câu hỏi, tạo tình huống,...). Người học bằng phương pháp học của mình, tổng hợp các hành động học,
phản hồi đến người dạy những thông tin
thể hiện qua ngôn ngữ, bằng bình luận, các câu hỏi hoặc thể hiện dưới dạng phi ngôn ngữ như thái độ,
cử chỉ hay cách ứng xử,... Khi đó, người dạy phản ứng bằng cách cung cấp cho
người học những thông tin hỗ trợ,
trả lời hoặc gợi ý các câu trả lời cho các câu hỏi do người học đặt
ra, điều chỉnh PPDH cho phù hợp, động viên kịp thời người học
lựa chọn một phương pháp học
khác, đường
hướng nghiên cứu mới. Như vậy người dạy tác
động, người học
phản hồi và ngược lại người học phản hồi
và người dạy phản
ứng, trong môi trường
mà
cả hai đều có thể
chấp nhận được.
b) Người học Û bạn học,
với cặp tương tác này trong dạy học truyền thống và nhất là dạy học lý thuyết
ít có điều kiện xảy ra. Vậy để cho cặp tương tác này xuất hiện, người dạy cần
phải tạo môi trường thích ứng giúp tương tác xuất hiện và khuyến khích phát
triển thông qua việc cho phép người học trao đổi, tranh luận xung quanh vấn đề
đang học tập, tình huống, câu hỏi tại sao, vì sao... mà người dạy đưa ra hoặc
do được nảy sinh trong học tập. Đặc biệt trong dạy học THKT được tổ chức học
tập theo cặp, nhóm thì điều này rất thuận lợi để người học tương tác với người
học một cách cởi mở.
c) Người học Û bản thân
người học, tương tác này khó có thể nhìn thấy, đánh giá được, bởi nó diễn ra
bên trong trí não người học. Tương tác này xuất hiện khi người học thực sự tích
cực. Ngay cả khi người học chỉ ngồi "lặng lẽ", bề ngoài có vẻ
thụ động. Nhưng thực tế, người học tích cực lúc đó đang tập trung hết sự chú ý
của mình để theo dõi bài học, suy nghĩ nội dung, mối liên hệ giữa chúng, có
giải đáp trong óc mình những vấn đề nảy sinh, đưa ra những thắc mắc (cho bản
thân tự trả lời hoặc hỏi các bạn, hỏi thầy giáo...) về nội dung bài học... nói
cách khác tư duy của người học đang hoạt động tích cực.
d) Môi trường dạy học Û người
học, vai trò của môi trường dạy học thực sự quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng học tập của người học. Môi trường dạy học làm cho người học phải
thay đổi để hòa nhịp và thích nghi, nó tác động trực tiếp đến người học qua đủ
5 giác quan dưới rất nhiều hình thức (bầu không khí học, trang thiết bị dạy
học, tư liệu...)[8]. Trong dạy học THKT nếu môi trường dạy học không có các
thiết bị dạy thì không thể tiến hành hoạt động dạy - học. Các thiết bị kỹ thuật
hiện đại, máy móc, phần mềm chương trình không những có tác động lớn đến người
học mà còn như là những người thầy vô hình ẩn trong đó. Ngày nay do khoa học kỹ
thuật, công nghệ phát triển mạnh nên đã xuất hiện các loại hình thiết bị dạy
học có khả năng tương tác mạnh với người học, các phần mềm dạy học tương tác
rất đa dạng phong phú. Việc tác động ngược trở lại của người học với môi trường
làm thay đổi môi trường (thay đổi bầu không khí, thay đổi vị trí thiết bị, thay
đổi góc nhìn vào đối tượng nghiên cứu...) là do các tình huống nảy sinh, động
cơ ham muốn chinh phục, khám phá,... Với cặp tương tác này mang tính ẩn
ngầm và thường
diễn ra ở bên trong mỗi
người học nên khó kiểm soát.
e) Môi trường dạy học Û người
dạy, ở cặp tương tác này thực chất là môi
trường tương tác đến người học thông qua người dạy,
nhưng thực tế lại ít được người dạy quan tâm khai thác, do đó trở nên mờ nhạt. Vì vậy,
trước đây, môi trường
chưa được phát huy đúng
chức năng trong quan hệ với các yếu tố khác của hệ dạy
học, đặc biệt là với yếu tố học. Môi trường có
thể ảnh hưởng tới phương pháp học của người học và
phương pháp sư phạm của người dạy. Môi
trường có tạo
điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi đến cả người học và người dạy, khi đó người học và người dạy phản ứng bằng cách sàng lọc những ảnh hưởng có
lợi của môi trường hoặc điều chỉnh các
ảnh hưởng bất lợi của môi trường để người dạy và người học có thể thích
nghi.
2.3 Một số biện
pháp tăng khả năng tương tác tích cực trong dạy học thực hành kỹ thuật
Trong bất kỳ quá trình dạy học nào
cũng tồn tại sự tương tác giữa ba nhân tố: người dạy, người học và môi trường
dạy học [5]. Nhưng các tương tác tích cực được diễn ra vào thời điểm nào của
quá trình dạy học, với thầy giáo, bạn học hay môi trường dạy học, định hướng
của tương tác chưa được quan tâm thích đáng. Hay nói cách khác là tương tác
chưa thể hiện được tính tích cực. Vậy, để các tương tác tích cực thì cần có một
số biện pháp sau:
a) Chẩn đoán về người học, điều quan
trọng ở đây là phải chuẩn đoán trình độ phát triển của người học. Thông qua
việc tìm hiểu người học xem họ đã có được mức độ kiến thức đến đâu, điều này
thực hiện theo việc đo lường để phát hiện, bằng câu hỏi trắc nghiệm, chủ yếu
tập trung vào tìm hiểu khả năng độc lập thực hiện nhiệm vụ cụ thể, giải quyết
bài tập, thực hiện công việc,... Đặc biệt quan tâm đến cái đang hình thành và
phát triển ở người học. Vì vậy, phải hướng đến vùng phát triển gần. Nghĩa là,
khi làm rõ khả năng của người học trong tình huống có sự hợp tác, sẽ xác định
được các chức năng tâm lý đang chín muồi mà trong thời gian gần nhất sẽ đạt tới trình độ hiện tại [5].
b) Đưa người học vào làm việc trong
môi trường có nguồn tri thức, ở đó người học đạt được những hiểu biết cần thiết
theo mục tiêu dạy học. Trong môi trường đó có sự trợ giúp của người dạy, bạn
học. Phải đặc biệt quan tâm đến sự giúp đỡ thường xuyên của người dạy và hợp
tác với bạn học.
Ví dụ: Việc nghiên cứu, tìm hiểu và
nhận biết kết cấu kỹ thuật của piston, trên vật thật là các loại piston của
động cơ đốt trong. Người dạy đưa ra cho người học các tình huống có thể xảy ra,
liên quan đến quá trình làm việc chuyển động tịnh tiến của piston (bó kẹt,
tiếng gõ...). Vậy giải pháp để khác phục là gì, dẫn đến sẽ cần có vật liệu chế
tạo, hình dạng và kết cấu cho phù hợp... Vậy môi trường tri thức ở đây chính là
các khái niệm kỹ thuật, nhiệm vụ, cấu tạo, điều kiện làm việc của piston trên
lý thuyết đã học, cần biết vận dụng vào thực tiễn. Người dạy có thể trợ giúp
bằng cách gợi ý để người học nhớ lại kiến thức lý thuyết đã học, giúp người học
phân tích áp dụng với các tình huống thực tế. Người học có thể thảo luận, hợp
tác với bạn học để rút ra những nhận định về các đặc điểm cấu tạo của piston.
Trên có sở đó sẽ giúp việc thực hiện tháo và lắp đúng đáp ứng theo yêu cầu kỹ
thuật.
c) Tạo khung kiến thức cơ bản đối
với nhu cầu người học (cách thức, phương pháp khai thác, sử dụng công cụ).
Khuyến khích người học độc lập tìm kiếm các giải pháp, độc lập thử thách chính
mình, tự mình vượt qua khó khăn, nhưng sẵn sàng đón nhận sự trợ giúp khi bế
tắc.
Ví dụ: Trong thực hành lắp bánh răng
cam với bánh răng trục khuỷu của động cơ đốt trong 4 kỳ - 4 xylanh thẳng hàng,
dùng xupáp treo. Nếu trên bánh răng không có dấu hoặc bị mất dấu thì cần lắp
thế nào? Khung kiến thức cơ bản được tạo ra là việc thực hiện các bước cân cam
cho động cơ. Người dạy cho người học trao đổi với nhau, tự lực suy nghĩ đưa ra
các phương án thực hiện. Trong đó người dạy có thể giúp đỡ người học qua các
gợi ý (tìm hiểu xem vị trí xilanh số 1, xác định cam hút, cam xả), giúp người
học xác định từng bước thực hiện.
d) Phát triển tư duy cho người học bằng
phương pháp học qua nghiên cứu, chiến lược phân tích, giải quyết vấn đề, sử
dụng công cụ,...
Ví dụ: Thực tế người học chỉ được
học và thực hành điều chỉnh khe hở nhiệt của xupáp trên những động cơ đốt trong
truyền thống. Nhưng nếu đặt người học vào tình huống phải thực hiện việc điều
chỉnh khe hở nhiệt cho động cơ đốt trong đời mới có ứng
dụng công nghệ tự động điều chỉnh xupáp hút, xả (trên động cơ của hãng
TOYOTA gọi là công nghệ VVT-i, Honda gọi là công nghệ i-VTEC, Mitsubishi gọi là
công nghệ MIVEC, Nissan gọi là công nghệ VVEL...). Trong thực tiễn hiện nay,
những động cơ trên ôtô có ứng dụng các công nghệ kể trên rất phổ biến. Vậy đòi
hỏi người học vẫn phải biết cách điều chỉnh khe hở nhiệt, để thực hiện được rõ
ràng người dạy cần phải cung cấp tài liệu cơ bản về cấu tạo nguyên lý, giúp
người học nhận ra đặc điểm cấu tạo khác gì với công nghệ cũ, những thành phần
nào của cơ cấu được lược bỏ (chẳng hạn không có đũa đẩy, không có đai ốc hãm và
vít điều chỉnh khe hở nhiệt...), khác biệt được thể hiện chỗ nào (đuôi xupáp có
dùng cốc trượt úp vào)... Qua kiến thức lý thuyết về nguyên lý phối khí người
học đưa ra phương án giải quyết cho phù hợp, người dạy trợ giúp, điều chỉnh,
định hướng cho người học.
e) Phát triển kỹ năng thảo luận theo
nhóm nhỏ cho người học bằng cách người dạy phải đưa ra mục tiêu, yêu cầu, lập
kế hoạch, tổ chức, đặc biệt chủ đề (nội dung)
thảo luận, đánh giá (kết luận) kết quả thảo luận.
Ví dụ: Cho người học thảo luận về
vấn đề tìm các nguyên nhân, cách khác phục bộ chế hòa khí K88 luôn cho hòa khí
đậm? Người dạy đưa ra mục tiêu là phải tìm được các nguyên nhân, đưa ra phương
án sửa chữa phù hợp, yêu cầu người học nghiên cứu bộ chế hòa khí K88 theo trình
tự khoa học, có thể kẻ bảng liệt kê, lên kế hoạch có thời gian rõ ràng, bầu ra
nhóm trưởng, thư ký ghi các ý kiến thảo luận và cuối cùng là viết tổng hợp báo
cáo. Cho các nhóm đổi chéo nhau để nhận xét kết quả.
g) Mọi sự trợ giúp của người dạy cần
chú ý là phải tác động vào vùng phát triển gần trong lộ trình phát triển của
người học.
Thông qua
hoạt động tư duy kỹ thuật người học phát triển dần từng bước. Bởi vậy các biện
pháp dạy của người dạy cũng phải thay đổi cho phù hợp với từng bậc thang
của sự phát triển. Theo lý thuyết của Vưgốtxki thì trình độ ban đầu của người
học tương ứng với “vùng phát triển hiện tại”. Trình độ này cho phép người học
có thể thu được những kiến thức gần gũi nhất với kiến thức cũ để đạt
được trình độ mới cao hơn. Vưgôtxki gọi đó là “vùng
phát triển gần nhất”. Khi người học đạt tới vùng phát triển gần nhất nghĩa là
đang ở “vùng phát triển hiện tại” nhưng ở trình độ mới cao hơn. Sau đó người
dạy lại tiếp tục tổ chức và giúp đỡ người học đưa người học tới “vùng phát
triển gần nhất” mới để sau đó nó lại trở về “vùng phát triển hiện tại”. Cứ tiếp
tục như vậy sự phát triển của học sinh đi từ nấc thang này đến nấc thang khác
cao hơn [5].
III.
KẾT LUẬN
Các cặp tương tác trong dạy học THKT luôn tồn tại
trong quá trình dạy học THKT, đan xen vào nhau và làm cho các nhân tố thuộc quá
trình dạy học luôn luôn vận động và biến đổi. Sự tham gia tương tác giữa hai
nhân tố bao giờ cũng bị ảnh hưởng bởi nhân tố còn lại. Đặc biệt với với nhân tố
môi trường không chỉ ảnh hưởng đến người dạy, người học, mà điều quan trọng là
làm thay đổi người học, người dạy nhằm đảm bảo sự thích nghi của người học,
người dạy với môi trường và ngược lại chính người dạy, người học cũng làm môi
trường thay đổi.
Để dạy học THKT theo quan điểm dạy học tương tác tích
cực người dạy cần biết tổ chức dạy học thông qua các hoạt động tương tác, vận
dụng và khai thác các biện pháp tăng khả năng tương tác tích cực trên đây. Tuy
nhiên, người dạy cần nghiên cứu kỹ nội dung kiến thức THKT phải dạy, để từ đó
xác định hoạt động dạy học cụ thể được đặt vào cặp tương tác nào là chủ đạo thì
phù hợp, vận dụng biện pháp tương tác tích cực nào sẽ đem lại hiệu quả cao
nhất. Như vậy quá trình dạy học theo quan điểm dạy học tương tác tích cực chắc
chắn sẽ nâng cao chất lượng dạy học THKT.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Văn Công (2011), Một số cách tiếp cận dạy học trong sư phạm
tương tác, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số (5/2011), Hà Nội.
[2]. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2006), Biện pháp hoàn thiện kĩ năng tự học môn Giáo dục học cho sinh viên Đại
học Sư phạm theo quan điểm sư phạm học tương tác, Luận án tiến sỹ Giáo dục
học, ĐHSP Hà Nội.
[3]. Nguyễn Văn Khôi,
Nguyễn Thị Thu Hà (1999), Vận dụng
quan điểm, tích cực hoạt động học tập của học sinh như thế nào, Trường ĐHSP
Hà Nội, Thông báo khoa học (6/1999).
[4]. Nguyễn Văn Khôi (2001), Một số
vấn đề cơ bản về lý luận dạy học thực hành kỹ thuật, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[8]. Nguyễn Quang Thuấn (dịch)
(2000), Jean-Marc Denommé et Madeleine Roy: Tiến
tới một phương pháp sư phạm tương tác, NXB Thanh niên, Hà Nội.
[9]. Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền
thống và đổi mới,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
TÓM TẮT BẰNG TIẾNG VIỆT
Hình thức tổ chức dạy học thực hành
kỹ thuật thông qua các hoạt động tương tác, giữa ba nhân tố chính trong hệ dạy
học là người học, người dạy và môi trường dạy học. Đặc biệt với với nhân tố môi
trường có chứa đựng nội dung dạy học, không chỉ ảnh hưởng đến người dạy, người
học, mà điều quan trọng là làm thay đổi người học, người dạy nhằm đảm bảo sự
thích nghi của người học, người dạy với môi trường và ngược lại chính người
dạy, người học cũng làm môi trường thay đổi. Để các cặp tương tác diễn ra tích
cực, người dạy cần biết khai thác, vận dụng các biện pháp cụ thể như: chẩn đoán
về người học, đưa người học vào làm việc trong môi trường tri thức, tạo khung
kiến thức cơ bản đối với nhu cầu người học, khuyến khích người học độc lập học
tập, đảm bảo cho người học khả năng tiếp cận công cụ, phát triển kỹ năng thảo
luận, người dạy chú ý tác động vào vùng phát triển gần của người học.
ABSTRACT
METHODS
IN STRENGTHENING ACTIVE INTERACTION
IN
TECHNICAL PRACTICE TEACHING
The
form of technical practice teaching via interaction activities, among 3 main
factors in teaching system are learner, teacher and teaching environment.
Especially, environment factor that contains teaching content not only has
effects on teachers, learners but what also is important is to change learners,
teachers in order to ensure the adaption of learners and teachers to
environment and vice verse, that is learners and teachers who also make
environment changed. So as interaction couple to be active, learners need to
know how to exploit, apply specific methods such as: recognize learners, bring
learners to work in knowledgeable environment, create primary knowledge scale
for learner’s demands, encourage learners to study independently, ensure that
learners be able to approach tools, develop discussion skills; Educators pay
attention to impact on near development area of learners.
Gợi ý cách viết một bài báo khoa học
Một số công trình bài báo khoa học đã công bố:
1. TƯƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC VÀ DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
2. KHUNG NĂNG LỰC DẠY HỌC
3. MÔI TRƯỜNG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
4. ĐÁNH GIÁ BÀI DẠY THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
5. BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH TƯƠNG TÁC TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT
Gợi ý cách viết một bài báo khoa học
Một số công trình bài báo khoa học đã công bố:
1. TƯƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC VÀ DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
2. KHUNG NĂNG LỰC DẠY HỌC
3. MÔI TRƯỜNG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
4. ĐÁNH GIÁ BÀI DẠY THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
5. BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH TƯƠNG TÁC TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét