TƯƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC VÀ DẠY HỌC
TƯƠNG TÁC
Nguyễn Văn Cường
Đại học PotsDam - CHLB Đức
Nguyễn Cẩm Thanh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
I. MỞ ĐẦU
Trong
mọi hoạt động dạy học đều có sự tương tác giữa các thành tố (người dạy, người học,
môi trường học tập,...), nhưng không hẳn đã là dạy học tương tác. Tương tác trong dạy học nói chung và dạy học tương tác là hai khái niệm có nội
hàm khác nhau. Hiểu rõ và phân biệt hai khái niệm này, từ đó vận dụng quan điểm dạy học tương tác vào thực tiễn
dạy học mới đem lại hiệu quả. Trong khuôn khổ bài báo này sẽ làm rõ khái niệm tương tác trong dạy học và dạy học tương tác, chỉ ra đặc điểm của dạy
học tương tác, vai trò và ý nghĩa của môi trường dạy học theo quan điểm dạy học
tương tác, cấu trúc tương tác trong dạy học.
II.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm
a) Khái niệm tương tác trong dạy học
Tương tác là sự tác động qua lại giữa
các chủ thể hành động, các thành phần trong một hệ thống hoặc giữa các hệ thống.
Tương
tác trong dạy học là sự tác động qua lại giữa các chủ thể là người dạy, người học
và đối tượng dạy học cũng như toàn thể các thành phần của quá trình dạy học.
Quá trình dạy học bao gồm nhiều
thành phần khác nhau, có mối tác động qua lại lẫn nhau [1]. Có thể trình bày tổng
quan các mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình dạy học trong một “khung lý luận dạy học” sau đây (hình 1):
Hình 1: Khung lý luận dạy học
Trong hình 1, các mối tương tác giữa người dạy, người học, đối tượng học tập
được đặt trong một “tam giác dạy học”,
là các tương tác cốt lõi của quá trình dạy học. Các mối tương tác này lại được
thực hiện thông qua các yếu tố mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện,
hình thức, nhiệm vụ, đánh giá, tại địa điểm, thời gian xác định. Các yếu tố này
có tác động qua lại với nhau, chúng có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình học
tập, có thể và cần tổ chức, điều khiển. Có thể coi đây là các yếu tố thuộc môi
trường dạy học cần tổ chức. Quá trình dạy học được thực hiện trong một điều kiện
khung xác định, chịu ảnh hưởng từ các yếu tố điều kiện môi trường bên ngoài và
các yếu tố điều kiện của chính người dạy và người học.
Khung lý luận dạy học cho thấy quá trình dạy học rất phức hợp, bao gồm
rất nhiều yếu tố có tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Do tính phức hợp
của quá trình dạy học nên có rất nhiều lý thuyết học tập hay các mô hình lý
luận dạy học khác nhau nhằm giải thích và tối ưu hóa quá trình dạy học.
b)
Khái niệm dạy học tương tác
Những nghiên cứu lý luận dạy học trong thời gian gần đây đặc biệt chú ý đến
tương tác trong dạy học và thuật ngữ “dạy
học tương tác” hiện nay được sử dụng phổ biến với những cách hiểu khác
nhau.
Những tư tưởng của lí thuyết kiến tạo có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới
việc nghiên cứu dạy học theo quan điểm tương tác cũng như môi trường dạy học.
Lí thuyết kiến tạo nhấn mạnh vai trò của chủ thể nhận thức trong việc kiến tạo
tri thức thông qua tương tác một cách tự lực với đối tượng nhận thức cũng như
thông qua tương tác xã hội trong nhóm trong một môi trường học tập. Giáo viên đóng
vai trò chính chủ yếu là người tổ chức môi trường học tập, điều phối hoạt động
kiến tạo tri thức và hành động của người học.
Những nghiên cứu về dạy học định hướng năng lực đòi hỏi sự đổi mới môi
trường dạy học truyền thống. Theo đó, môi trường học tập cần góp phần phát
triển ở người học khả năng độc lập, khả năng giao tiếp, khả năng hành động và
khả năng đánh giá ở mức cao hơn. Những yêu cầu đó đòi hỏi sự thay đổi về cơ bản
tính chất các mối tương tác trong dạy học theo hướng tăng cường tính tích cực,
tự lực của người học.
Theo mô hình các năng lực then chốt của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD), những năng lực then chốt cần phát triển ở học sinh bao gồm ba nhóm
năng lực [2] sau đây:
-
Sử dụng một cách tương tác các
phương tiện thông tin và phương tiện làm việc (ví dụ phương tiện ngôn ngữ,
phương tiện kĩ thuật)
-
Tương tác trong các nhóm xã hội
không đồng nhất
-
Khả năng hành động tự chủ
Như vậy, tương tác không chỉ là
cách thức của các mối quan hệ mà còn trở thành mục tiêu dạy học. Người học cần
được hình thành các năng lực tương tác.
Trong mọi quá trình dạy học đều diễn ra các hoạt động tương tác, đó là tương tác trong dạy học. Tuy nhiên không
phải mọi quá trình dạy học đều được gọi là dạy
học tương tác. Tùy theo việc quá trình dạy học đó được tổ chức theo lí thuyết
hay quan điểm, phương pháp dạy học nào thì các tương tác cũng diễn ra khác nhau
và mức độ tích cực và tự lực của học sinh cũng khác nhau.
Trong bài báo này, dạy học tương tác được xem xét như một
quan điểm dạy học, không phải một phương pháp dạy học cụ thể.
Dạy học tương tác là dạy học hướng vào người học, trong
đó diễn ra các hoạt động tương tác đa dạng trong một môi trường dạy học được tổ
chức phù hợp, đòi hỏi tích tích cực và tự lực cao của người học. Người dạy đóng
vai trò chủ yếu là người tổ chức môi trường học tập và hỗ trợ, tư vấn cho người
học.
Như vậy ở đây có sự phân biệt giữa
khái niệm tương tác trong dạy học nói chung và quan điểm dạy học tương tác. Dạy
học tương tác đòi hỏi ở mức độ cao về sự tương tác đa dạng, tính tích cực, chủ
động và tự lực của người học. Tuy nhiên, người học vẫn nhận được những định hướng, trợ giúp cần thiết về
nội dung và phương pháp học tập. Có thể gọi sự tương tác ở đây là “tương
tác tích cực” với nghĩa nhấn mạnh yêu cầu về tính tích cực của người học.
Không phải mọi quá trình dạy học đều có thể áp dụng dạy
học tương tác ở mức độ cao. Tùy theo mục tiêu, nội dung và điều kiện dạy học có
thể áp dụng dạy học tương tác ở những mức độ phù hợp để tổ chức tối ưu các hoạt
động tương tác. Khi đó có thể sử dụng khái niệm dạy học định hướng tương tác.
2.2. Đặc điểm của dạy học tương tác
Đặc trưng cơ bản của dạy học tương tác là:
- Tương tác là cách thức và mục tiêu dạy học. Dạy học tương tác dựa trên
các hoạt động tương tác đa dạng, đặc biệt chú trọng đến tương tác xã hội giữa
người học và tương tác chủ động của người học với môi trường học tập.
- Dạy học tương tác chú trọng việc xây dựng môi trường dạy học. Môi trường
dạy học tương tác cần tạo điều kiện và hỗ trợ mạnh mẽ các hoạt động tương tác
đa dạng.
- Dạy học tương tác định hướng vào người học, coi trọng vốn kiến thức, kinh nghiệm của người học, đặt họ vào vị trí
trung tâm của quá trình dạy học. Giáo viên chủ yếu đóng vai trò là người
tổ chức, điều khiển môi trường dạy học.
- Nội dung học tập gắn với tình huống thực tiễn, mang tính phức hợp, phù
hợp với hứng thú người học.
- Các nhiệm vụ học tập hỗ trợ phát triển năng lực vận dụng tri thức vào
thực tiễn, giải quyết các vấn đề phức hợp, sáng tạo.
- Phương tiện dạy học hỗ trợ quá trình tự tìm tòi thi thức của người học,
tạo điều kiện cho sự tương tác.
- Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực và tự lực, tự điều khiển của
người học. Hình thức làm việc chủ yếu là làm việc hợp tác trong nhóm và làm
việc độc lập của người học. Chú trọng các hoạt động thực tiễn của người học,
kết hợp nhiều giác quan.
- Môi trường dạy học tương tác cũng thường là môi trường
đa phương tiện, sử dụng các thiết bị dạy học đa phương tiện, phần mềm dạy học
có chức năng tương tác, tạo điều kiện cho người học tương tác với môi trường dạy
học.
2.3. Môi trường dạy học tương tác
Các tương tác trong dạy học diễn ra trong một môi trường
dạy học. Theo cách hiểu chung nhất, môi trường dạy học (còn gọi là môi trường học
tập) là toàn bộ những yếu tố bên ngoài người học có tác động tới quá trình học
tập. Quá trình dạy học trong nhà trường là quá trình có tổ chức, vì vậy môi trường
dạy học cần là trường dạy học có tổ chức [1].
Môi trường dạy học theo nghĩa hẹp chủ yếu đề cập đến các
yếu tố điều kiện vật chất như trang thiết bị, phương tiện, tài liệu, cũng như nội
dung, nhiệm vụ học tập. Môi trường dạy học theo nghĩa rộng bao gồm cả yếu tố
con người - xã hội, trong đó là người dạy và người học với các phương pháp dạy
học và các hình thức tương tác xã hội cũng như văn hóa ứng xử.
Môi
trường dạy học là tập hợp các yếu tố không gian, thời gian,
phương tiện, nội dung, tài liệu dạy học, nhiệm vụ học tập cũng như những phương
pháp và hình thức làm việc của người dạy và người học, được tổ chức một cách
phù hợp để khuyến khích, hỗ trợ các quá trình học tập, nhằm đạt mục tiêu dạy học.
Các yếu tố của môi trường dạy học có tác động qua lại, phụ
thuộc lẫn nhau, tức là cũng có mối tương tác với nhau. Yếu tố không gian ở đây
bao gồm phòng học với những trang thiết bị kèm theo như bàn ghế và các điều kiện
như không khí, ánh sáng, âm thanh...
Môi trường dạy học tương tác là môi trường tạo điều kiện và hỗ trợ mạnh mẽ
các hoạt động tương tác đa dạng, đặc biệt là tương tác giữa người học với các
phương tiện, tài liệu, nhiệm vụ học tập và sự tương tác xã hội giữa người học với
nhau trong quá trình học tập để lĩnh hội nội dung học tập với tính tích cực và
tự lực cao.
2.4. Cấu trúc tương tác trong dạy học
Ở hình 2 trình bày cấu
trúc các dạng tương tác cơ bản trong dạy học.
Hình 2: Cấu trúc tương tác trong dạy học
Trong mô hình ở hình 2, môi trường dạy học theo
nghĩa hẹp bao gồm các yếu tố nội dung, phương tiện, tài liệu, nhiệm vụ học tập...
Môi trường dạy học theo nghĩa rộng bao gồm môi trường dạy học theo nghĩa hẹp và
cả các yếu tố người dạy và người học. Đối với một người học thì người dạy và
các bạn học cũng thuộc môi trường học tập của người học đó, có tác động trực
tiếp tới quá trình học tập của cá nhân người học. Như vậy người học và người
dạy không đứng ngoài môi trường mà thuộc về môi trường dạy học. Chuẩn bị môi
trường dạy học không chỉ là chuẩn bị về phòng học, nội dung. phương tiện, tài
liệu mà còn bao gồm cả việc chuẩn bị phương pháp dạy và học, các hình thức hợp
tác, bầu không khí xã hội trong lớp học.
Cấu trúc tương tác trong dạy học bao gồm các tương
tác đa dạng giữa các thành phần thuộc môi trường dạy học. Cấu trúc các tương
tác chung của quá trình dạy học là tương tác giữa người dạy, người học và môi
trường dạy học. Trong đó có các mối tương tác cơ bản sau:
-
Tương tác giữa người dạy và người học: Sự thống nhất biện chứng giữa vai trò
lãnh đạo của giáo viên và vai trò tự chủ của học sinh là một nguyên tắc dạy học.
Tùy theo phương pháp dạy và học khác nhau thì tính chất tương tác người dạy –
người học cũng khác nhau với mức độ tự khác nhau của người học. Trong dạy học
tương tác thì người dạy chủ yếu đóng vai trò người tư vấn, giúp đỡ, người học
lĩnh hội tri thức với tính tự tích cực và tự lực cao.
- Tương tác giữa người học và người học: Các nghiên
cứu tâm lí đã chỉ ra rằng học sinh học tập tốt nhất trong sự tương tác với các
bạn học đồng lứa tuổi. Thông qua tương tác trong nhóm còn giúp phát triển năng
lực cộng tác, năng lực xã hội. Tương tác trong nhóm là có vai trò quan trọng
trong dạy học tương tác. Người học cần được rèn luyện các kỹ thuật làm việc
nhóm, huy động sự tích cực của tất cả các thành viên.
- Tương tác giữa người dạy và môi trường dạy học:
Người dạy là người thiết kế, tổ chức và điều khiển môi trường dạy học. Trọng
tâm là việc chuẩn bị nội dung, phương tiện, tài liệu, phiếu làm việc, nhiệm vụ,
bài tập cũng như thiết kế các phương pháp, hình thức làm việc của người dạy và
người học. Môi trường dạy học trong dạy học tương tác cần hỗ trợ các khả năng
tương tác đa dạng và tính tích cực, tự lực của người học.
- Tương tác giữa người học và môi trường học tập:
Tương tác giữa người học với môi trường dạy học là tương tác với các yếu tố cụ
thể của môi trường học tập được tổ chức, đó là nội dung, tài liệu, phương tiện,
nhiệm vụ, bài tập học tập. Đây là dạng tương tác trọng tâm của dạy học tương
tác. Tất cả các tương tác cần hỗ trợ cho việc tương tác tích cực, độc lập giữa
người học với đối tượng, nội dung học tập để tự lực kiến tạo tri thức.
- Môi trường bên ngoài có mối tác động, ảnh hưởng qua
lại đối với môi trường dạy học cũng như các thành phần của nó. Môi trường dạy
học cần được thiết kế và tổ chức cho hợp với mục tiêu và các điều kiện dạy học
cụ thể và phù hợp với điều kiện của người học.
III. KẾT LUẬN
Dạy học theo định hướng tương
tác góp phần phát triển tính tích cực, tự lực, nhằm phát triển năng lực của người
học. Trong dạy học tương tác, các hoạt động tương tác chủ động giữa người học
với môi trường dạy học và tương tác xã hội giữa người học và bạn học là trọng
tâm của các hoạt động tương tác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2014): Lí luận dạy
học hiện đại. NXB Đại học sư phạm Hà Nội.
[2] OECD (2005): The definition and selection of key competencies. Executive.
[3] Kersten Reich (2004): Konstruktivistische
Didaktik. Lehren und Lernen aus interaktionnistischer Sicht. Berlin: Lucherhand.
[4] Daniel Staemmler (2006): Lernstile und interaktive Lernprogramme.
Wisbaden: Deutsche Universität Verlag.
[5] Diethelm Wahl (2006):
Lernumgebungen erfolgereich gestalten. Bad Heilbrunn: Klnikhadt.
Nguồn: Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Cẩm Thanh, (2015), Tương tác trong dạy học và dạy học tương tác, tạp chí khoa học số 2 ĐHSP Hà Nội, tr. 3-9
-------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Cẩm Thanh, (2015), Tương tác trong dạy học và dạy học tương tác, tạp chí khoa học số 2 ĐHSP Hà Nội, tr. 3-9
-------------------------------------------------------------------------------------
Một số công trình bài báo khoa học đã công bố:
1. TƯƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC VÀ DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
2. KHUNG NĂNG LỰC DẠY HỌC
3. MÔI TRƯỜNG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
4. ĐÁNH GIÁ BÀI DẠY THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
5. BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH TƯƠNG TÁC TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT
1. TƯƠNG TÁC TRONG DẠY HỌC VÀ DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
2. KHUNG NĂNG LỰC DẠY HỌC
3. MÔI TRƯỜNG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
4. ĐÁNH GIÁ BÀI DẠY THỰC HÀNH KỸ THUẬT THEO QUAN ĐIỂM DẠY HỌC TƯƠNG TÁC
5. BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH TƯƠNG TÁC TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC THỰC HÀNH KỸ THUẬT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét